lsrhiennam
Tổng số bài gửi : 41 Join date : 21/10/2011 Age : 27 Đến từ : Quy Nhơn City
| Tiêu đề: Một số ần tích về Kỳ Lân Thu Nov 10, 2011 10:27 am | |
| Em không biết là trên forum đã có bài này chưa. Nhưng mà em xin post lại để cho những ai mới tham gia hiểu về sự tích kỳ lân hơn ạ. Từ nhiều thập kỷ cho đến nay, lân vẫn là 1 loài huyền bí nhất trong tất cả các loài sinh vật. Nó đc tôn sùng trong những câu chuyện kể hoặc thơ phú nhưng sự thật về lân vẫn là 1 điều bí ẩn Kỳ Lân một trong những loài vật huyền bí nhất, được ca ngợi trong truyền thuyết dân gian, trong thơ ca, và truyền miệng trong nhiều thế kỷ; và nó để lại một bí ẩn lớn mà thế giới vẫn chưa tìm ra. Mặc dù không một ai được nhìn thấy nó trong nhiều thế kỷ qua, nhưng nhiều người vẫn tin rằng nó có thật; và những hình tượng phổ biến về loài kỳ lân của Đông phương như trong truyện dân gian Trung Hoa rất khác biệt so với hình tượng quen thuộc về loài ngựa trắng này của người Tây Phương, chỉ duy nhất một điều chắc chắn rằng chúng có hình dạng như loài ngựa và có một sừng giữa trán.
Những điều bí ẩn về loài Kỳ Lân Nhiều người tin rằng kỳ lân hoàn toàn không có thật mà tồn tại chỉ để tăng thêm không khí thần bí. Nó sống ở những những thời điểm và những vùng tương tự như khủng long, voi mamut, hoặc như những loài chưa được xác định như Bigfoot (sinh vật có chân rất lớn) và Lochness Monster (quái vật ở hồ Lochness). Những người khác nữa thì tin rằng kỳ lân vẫn tồn tại ở những miền xa xôi hẻo lánh, và chỉ có thể được tìm thấy bởi đức hạnh và sự chân thật.
Truyền thuyết kể rằng bất cứ ai nếu có cơ hội gặp được Kỳ lân đều phải kinh ngạc trước vẻ đẹp của nó, và nhân loại đã dành cho nó một sự tôn kính trọng nền văn hóa và lịch sử của thế giới.
Kỳ lân phương Đông Kỳ lân tồn tại trong thần thoại Trung Hoa hàng ngàn năm nay. Nó xuất hiện dưới nhiều hình dạng khác nhau nhưng phổ biến nhất là một loài vật có thân thể của loài hươu, đuôi của bò, móng của ngựa, và có một chiếc sừng ngắn mọc giữa trán. Chùm lông trên lưng nó có năm màu tượng trưng cho năm màu sắc thiêng liêng "kim, mộc, thủy, hỏa, thổ" của Trung Hoa: đỏ, vàng, xanh, trắng, và đen. Phần lông ở bụng nó có màu vàng. Trong một vài bản ghi chép khác thì Kỳ lân có phần da màu xanh ngọc giống như rồng.
Kỳ lân Trung Hoa được gọi là chee-lin hay Kilin (Ki, Kỳ lân đực, và Lin, Kỳ Lân cái). Cẩn thận trong từng bước đi, Kỳ lân không bao giờ giẫm lên bất cứ sinh linh nào ngay cả những sinh vật rất nhỏ và chỉ ăn thực vật có vòng đời ngắn. Tuổi thọ của Kỳ lân khoảng 1000 năm.
Kilin mang đến mùa xuân cho trái đất, và rất được tôn kính. Nó là một trong bốn loài thú của điềm tốt lành (cùng với Long, Quy, và Phụng), nó báo trước nhựng việc ở tương lai và tượng trưng cho sự sống.
Những khám phá đầu tiên về Kỳ lân Trong thần thoại Trung Quốc, Kỳ lân là một loài thú của điều tốt lành và chỉ đến với con người trong những sứ mệnh quan trọng. Sự xuất hiện của nó được giải thích như một dấu hiệu tốt lành, đồng thời khi nó không được nhìn thấy trong nhiều thế kỷ đó là điềm báo rằng con người đang sống trong một thời kỳ “đen tối”. Nó chỉ xuất hiện trở lại khi cuộc sống tươi đẹp và khi Đức Chúa Trời trị vì.
Kỳ lân lần đầu tiên được biết đến cách đây khoảng 5000 năm khi nó thực hiện một nhiệm vụ mang đến cho Hoàng đế FuHis một thông điệp bí mật. Sau đó, khoảng 4700 năm trước công nguyên, môt Kỳ lân khác đã xuất hiện tại khuôn viên cung điện hoàng đế Huang Di. Điềm tốt lành này như báo hiệu triều đại của ông ấy sẽ kéo dài và cuộc sống nhân dân sẽ ấm no, hạnh phúc. Cách đây khoảng 4000 năm, hai con Kỳ Lân đã sống suốt triều đại của hoàng đế Yao, ông là một trong năm Hoàng đế được dựng tượng trên thế giới. Sự chào đời và ra đi của Khổng Tử được báo trước bởi Kỳ Lân
Người Trung Hoa cũng tin rằng Kỳ lân có thể báo trước sự chào đời của các anh hùng giống như Khổng Tử. Năm 551 trước Công nguyên, có một người phụ nữ mang thai đã nhìn thấy một con Kỳ Lân trong rừng. Nó đã đưa một mẩu ngọc bích trên đầu vào lòng bà ấy. Bà ấy nhận ra sự quan trọng của điềm báo và biết rằng nó là món quà mà thượng đế ban tặng.
Dòng chữ được khắc trên mẩu ngọc bích nói rằng sự sáng suốt tài giỏi của con trai bà ấy sẽ xua tan cho ma quỷ, bóng đêm, và Khổng Tử sẽ trở thành nhà hiền triết được tôn kính nhất Trung Quốc. Thậm chí cho đến ngày nay, 2500 năm sau đó, những lời tiên đoán của ông ấy vẫn được lưu danh như một tín ngưỡng. Khi đến tuổi già, theo sử sách, Khổng Tử đã thấy Kỳ Lân đứng trước mặt mình và điều đó đồng nghĩa với việc ông ấy sẽ ra đi. Những phát hiện khác về Kỳ Lân phương Đông Ngoài Trung Quốc, những nước Châu Á khác cũng có truyền thuyết về Kỳ Lân. Ở Nhật Bản, Kỳ Lân được biết đến với tên Kirin, có bờm dài và thân thể như loài bò. Không giống như Kỳ Lân Trung Hoa, Kỳ Lân Nhật Bản là loài thú làm người ta sợ hãi, đặc biệt là những kẻ phạm tội. Thật sự, nó có thể tìm ra những điều sai trái. Người xét xử có thể gọi Kỳ Lân đến để xác định tội phạm trong những vụ án nghiêm trọng. Sau khi nhìn tội phạm, nét sợ hãi sẽ xuất hiện trên mặt của Kỳ Lân, tiếp sau đó nó sẽ dùng chiếc sừng của mình đâm xuyên qua tim kẻ có tội.
Một loài Kỳ Lân ở Ai cập được gọi với tên karkadann, tạo ra sức lôi cuốn đặc biệt. Chiếc sừng của nó có thể chống lại nọc độc của bò cạp, và ăn thịt Kỳ Lân sẽ giải thoát linh hồn khỏi yêu ma. Dựa vào sự mô tả từ những cuốn sách cổ, những nhà chuyên môn tin rằng karkadann thực chất là loài linh dương châu Phi có sừng dài và thẳng, đó là 1 loài linh dương lớn với về ngoài chỉ có một chiếc sừng khi nhìn từ một góc độ nào đó. Những nhân vật vĩ đại đã nhìn thấy Kỳ Lân Adam ở cõi cực lạc, nơi bắt đầu sự sống Hoàng đế FuHsi, ở Trung Quốc cách đây 5,000 năm Hoàng đế Huang Di, trong khuôn viên ở cung điện hoàng đế vào năm 2697 trước Công nguyên (CN) Hoàng đế Yao, Trung Quốc khoảng 2000 năm trước CN
Khổng Tử, Trung Quốc, 551-479 trước CN Ctesias, Ấn độ, thế kỷ thứ IV trước CN Alexander vĩ đại, Châu Á, vào thế kỷ thứ III trước CN Julius Caesar, Đức, thế kỷ thứ nhất trước CN Prester John, Châu Á giữa thế kỉ 2 Kỳ Lân phương Tây Có lẽ Kỳ Lân được biết đến sớm nhất bởi Herodotus, là người châu Phi sống vào thế kỷ thứ III trước CN đã viết cuốn “Con lừa có sừng” (nguyên văn tiếng Anh ‘horned ass’). Vào khoảng thế kỳ thứ IV trước CN, Kỳ Lân được biết đến rất nhiều ở Tây Phương và tiếp tục được đề cập vào những thế kỷ sau đó. Trong tác phẩm của một bác sĩ đồng thời là sử học gia người Hy Lạp, Ctesias, là người đã du lịch đến Ba Tư và mang về những câu chuyện kỳ quái qua lời kể của những thương gia đã đi xuyên suốt Ấn Độ. Mặc dù không nhìn thấy ai nhưng ông ấy mô tả một loài thú và gọi chúng là ‘Những chú lừa hoang dã của An Độ’ (nguyên văn ‘Wild ass of India’) có kích cỡ bằng với loài ngựa, với một thân hình màu trắng, cái đầu màu đỏ, đôi mắt màu xanh nhạt, và một chiếc sừng thẳng nằm phía trước trán, dài khoảng 45.72 cm. Ông ấy mô tả phần dưới của chiếc sừng có màu trắng, phần giữa có màu đen, và phần đỉnh có màu đỏ. Như một bác sĩ, ông ấy quan tâm đặc biệt đến chiếc sừng bởi vì ông nghe đồn rằng nó bảo vệ cơ thể chống lại thuốc độc chết người. Uống những chén nước được nấu từ chiếc sừng này sẽ có được sức mạnh làm vô hiệu hóa độc tính của độc dược và vết thương sẽ chóng lành khi tẩm chén nước vào vết thương. Ctesias miêu tả Kỳ Lân chạy nhanh phi thường, không thể thuần hóa được và hầu như khổng thể bắt giữ được nó.
Chẳng bao lâu sau, những câu chuyện của Ctesias được nhiều người biết đến, triết học gia danh tiếng người Hy Lạp Aristotle suy luận rằng KỳLân là có thật, nhưng ông ấy không tin vào các câu chuyện về sức mạnh thần kì của chiếc sừng. Một sử học gia lớn tuổi Pliny (người được sinh ra ở triều đại của đức Giáo Hoàng và qua đời vào năm 79 sau CN đã mô tả về Kỳ Lân trong bộ sách bách khoa ‘Lịch sử tự nhiên’ - nguyên văn “Historia Naturalis”) cũng kết luận rằng Kỳ Lân đã tồn tại ở Ấn Độ. Kỳ Lân của Pliny là một loài thú hung ác, với thân hình của ngựa, đầu của hươu, chân của voi, và đuôi của loài lợn hoang dã, và một chiếc sừng màu đen có chiều dài 2 cubits (91.44 cm) đứng sừng sững trước trán. Cả hai ông đều trình bày có biện luận chặt chẽ, có sự tính toán hợp lý và khẳng định rằng loài vật này có tồn tại. Sự thật, không có lý do nào nữa để nghi ngờ về sự hiện hữu của Kỳ Lân hơn là một con voi hay hươu cao cổ chỉ bởi vì đối với tôi nếu mọi người chưa từng nhìn thấy chúng không có nghĩa là chúng không tồn tại.
Múa Lân – Sư – Rồng (gọi tắt là múa Lân) là một sinh hoạt văn hóa đặc thù của người Hoa. Trong quá trình du nhập văn hóa, múa Lân đã trở nên quen thuộc với người Việt từ xa xưa. Một số nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng Lân không xuất phát từ Trung Quốc. Lân đã đến Trung Quốc bằng Con đường Tơ lụa (Silk Road) do những lãnh đạo các bộ tộc (ngày nay thuộc nước Ba Tư, Afghanistan) mang Lân tặng cho vua chúa Trung Quốc như là những món quà (?). Lân hiện diện trong đời sống văn hóa Trung Hoa từ thời nhà Hán (205 trước Công nguyên - 220 sau Công Nguyên). Ngày nay, Lân có mặt trong sinh hoạt văn hóa nhiều quốc gia châu Á. Múa Lân là sự kết hợp giữa nghệ thuật, lịch sử và động tác võ thuật trên nền nhạc của trống, cồng và chiêng.
Truyền thuyết về lân: Xa xưa, hàng năm vào những ngày Tết, các làng chài ven biển ở Trung Quốc thường bị một loài thủy quái (gọi là Nien, đọc là "niên" - đồng âm với "năm"- tiếng Hoa) hung dữ từ dưới đại dương xâm nhập, phá hoại nhà cửa, giết chết cả người lẫn súc vật. Vì thế, thay vì được hưởng không khí vui xuân, hưởng lộc tại nhà, mọi người phải kéo nhau lên núi lánh nạn thủy quái. Lời cầu cứu vang khắp đất trời, Ngọc Hoàng phái Phật Di Lặc hoá thân thành ông Địa xuống trần gian để cứu giúp chúng sinh khốn khổ. Để thu phục nó, ông Địa (với sự giúp sức của sư tử) dụ con Nien ăn một loại cỏ tiên gọi là Linh chi thảo khiến nó từ một con vật dữ tợn ưa ăn thịt người trở thành một loài thú hiền lành thích ăn các loại rau quả. Sau đó, ông Địa đưa con Nien về trời. Hàng năm, vào những ngày Tết, ông Địa dẫn con Nien (lúc này đã được gọi là con Lân) trở lại trần gian, cùng đi chúc Tết mọi nhà "Hạnh phúc tràn đầy, Tài lộc dồi dào" trong nền nhạc náo nhiệt đón Xuân.
Một truyền thuyết khác, Lân là một trong Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng) do Thái Thượng lão quân nuôi. Một hôm, Lân lén trốn chạy xuống trần gian chơi. Thấy cảnh vật trần gian hữu tình, Lân ở lại không chịu trở về trời, tự tung tác quái. Nghe tin chẳng lành, Thái Thượng lão quân nhờ Phật Di Lặc hạ giới để thu hàng con "nghiệt súc". Lân bị bắt về Thiên đình, khắp mọi miền, làng mạc, bà con hân hoan tống tiễn bằng hàng loạt tiếng trống vang dội, họ đốt pháo như sấm nổ, mong Lân sợ không dám quay lại. Rồi từ đó, mỗi khi Tết đến, như nhớ lại tích xưa, người Hoa lại tổ chức múa Lân với ý nghĩa: chúc lành, cầu may mắn ngay từ những ngày đầu xuân mừng năm mới.
Với những dân tộc có nền văn minh lúa nước, phải chăng Long (rồng) là mưa, là gió, là thời tiết, Lân (Nien) là nước, là lụt bão, Sư (sư tử) là đất, là bản làng? (Tương tự như truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh ở Việt Nam). Mưa không thuận, gió không hòa, bão lụt thiên tai là điều đáng sợ nhất. Vào thời xa xưa, khi con người thường phải thần thánh hóa những hiện tượng "trái gió trở trời" nên hình tượng Long - Lân - Sư phát sinh từ đây? | |
|